Các món ăn bài thuốc từ gạo nếp
* Gạo nếp 500g ngâm nước một đêm, đổ ra rá để ráo nước rồi sao thơm, hoài sơn 50g sao vàng, hai thứ tán thành bột mịn, mỗi sáng dùng 20 - 30g quấy đều với nước sôi, đường đỏ lượng vừa đủ và một chút xíu hạt tiêu làm món điểm tâm. Công dụng: ôn tỳ noãn vị, chỉ tả, dùng cho người bị bệnh đường ruột, đại tiện lỏng nát kéo dài, chán ăn, mệt mỏi do tỳ vị hư nhược. Cũng có thể dùng gạo nếp lượng vừa đủ cho vào trong một cái dạ dày lợn cùng với gia vị các loại, buộc kín miệng, đem hấp cách thuỷ cho thật chín rồi chia ăn vài lần.
@item:7@
* Gạo nếp 100g, vỏ tiểu mạch 100g, hai thứ sao vàng tán bột, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 10g. Công dụng: cố biểu chỉ hãn, dùng cho các trường hợp hay đổ mồ hôi vô cớ, cơ thể mệt mỏi kéo dài, y học cổ truyền gọi là chứng tự hãn do khí hư. Phương thuốc này được ghi trong sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Nếu không có gạo nếp, người xưa còn dùng rễ cây lúa nếp để thay thế, sắc uống thay trà mỗi ngày 250g.
* Gạo nếp non hoặc hoa lúa nếp 100g, tang bạch bì 100g, hai thứ sắc kỹ, chia uống 2 lần trong ngày. Công dụng: dưỡng âm thanh nhiệt, dùng để chữa chứng tiêu khát (đái đường) biểu hiện bằng các triệu chứng khát nhiều, uống nhiều, đái nhiều. Nếu mắc chứng vị âm hư gây ra tình trạng miệng khát muốn uống nhiều nước, ăn kém, hay nôn và buồn nôn, có thể dùng 30g gạo nếp tán bột mịn, nấu thành dạng hồ loãng, chế thêm 30 g mật ong, chia ăn vài lần trong ngày. Phương thuốc này còn có tác dụng lợi đởm chỉ thống, khu trùng, thường dùng cho các trường hợp cơn đau quặn gan do giun chui lên đường mật.
* Gạo nếp 200g, bột đại hồi 50g, hai thứ trộn đều, sao thật nóng, bọc trong túi vải đem chườm vào vị trí tổn thương. Công dụng: tán hàn chỉ thống, dùng để chữa chứng đau lưng, đau khớp. Phương thuốc này được ghi lại trong sách Nhiếp sinh chúng diệu phương.
* Gạo nếp 100g, nụ hoa hòe 200g, hai thứ sao vàng tán bột, mỗi sáng sớm uống 10g với nước sôi khi chưa điểm tâm. Công dụng: nhuyễn kiên tán kết, tiêu anh, dùng cho những trường hợp bị lao hạch ở cổ.
* Cơm nếp đốt thành than, trộn đều với bột hoàng liên và dầu vừng, bôi vào vùng tổn thương. Công dụng: giải độc trừ sang, dùng cho trẻ em đầu bị chốc lở. Nếu không có hoàng liên có thể dùng khinh phấn thay thế. Phương thuốc này được chép trong sách Phổ tế phương.
* Gạo nếp 250g, rượu vàng 500 ml, trứng gà 2 quả. Tất cả cho vào bát to, đem hấp cách thủy cho chín, chia ăn vài lần. Công dụng: bổ trung ích khí, dùng để bồi bổ cho người suy nhược cơ thể, sau khi bị bệnh nặng. Cũng có thể dùng 500g gạo nếp đồ chín; 50g biển đậu, 50g hạt sen và 50g ý dĩ ngâm nước nóng trong 4 giờ; 50g long nhãn, 25g đường thanh mai, 20 quả táo đỏ. Tất cả cho vào bát to, chế thêm một chút mỡ lợn rồi đem hấp chín, khi ăn đổ úp ra đĩa, có thể tưới thêm ít nước đường trắng, ăn nóng. Công dụng: kiện tỳ dưỡng vị, ích âm bổ thận. Theo kinh nghiệm của cổ nhân, người già ốm yếu, ăn ít, bị bệnh đái đường, đại tiện lỏng hoặc phù thũng nên trọng dụng món ăn này.
Ngoài ra, dân gian còn dùng cơm nếp nóng để chườm làm thông tắc tia sữa cho sản phụ, cơm nếp nguội giã nhuyễn trộn với bột thuốc để bó gãy xương và bong gân, uống trà gạo nếp rang để chữa chứng phiền khát, ủ men chế cơm rượu hoặc cất rượu nếp cái hoa vàng để ngâm rượu trứng và rượu thuốc để bồi bổ sức khỏe. Tuy nhiên, vì trong gạo nếp có chứa nhiều amilopectin tạo nên độ dẻo đặc trưng của cơm nếp nhưng lại rất khó tiêu, cho nên trẻ nhỏ, người già, người mới ốm dậy, người tỳ vị quá hư nhược không nên ăn nhiều đồ nếp, đúng như sách Bản thảo cương mục đã khuyên: "Nhu mễ tính niêm trệ nan hóa, tiểu nhi, bệnh nhi, tối nghi kị chi". Nếu muốn ăn thì tốt nhất nên nấu thành cháo. Mặt khác, vì gạo nếp lại kèm thêm tính ôn ấm nên những người có thể chất thiên nhiệt hoặc đàm nhiệt, những người đang bị bệnh có sốt, ho khạc đờm vàng, vàng da, chướng bong... cũng không nên dùng đồ nếp.
Theo quan niệm của Y học cổ truyền, trong nhân thể có ba thứ quý báu nhất là Tinh, Khí và Thần, gọi chung là "tam đại bảo". Tinh sinh khí, khí sinh thần, tinh có đầy đủ, sung túc thì mới có thể hoá khí, khí có vượng thịnh thì thần mới sáng sủa và đầy đủ, từ đó âm dương mới cân bằng, tạng phủ mới điều đạt, cơ thể theo đó mà khoẻ mạnh. Tinh được tạo nên từ hai nguồn: tiên thiên và hậu thiên, tinh tiên thiên bẩm thụ từ cha mẹ (có thể hiểu là yếu tố di truyền), tinh hậu thiên lấy từ khí trời và khí đất, khí trời là dưỡng khí vô hình, khí đất là vật thể hiện hữu, trong đó có các loại rau cỏ và ngũ cốc. Sách thuốc xưa có câu: " Tinh sinh bởi 5 loại lúa", trong Hán ngữ, chữ Tinh và chữ Khí đều có bộ Mễ cả, đủ thấy cổ nhân coi thóc gạo cần thiết cho con người biết nhường nào!
ThS. BS. HOÀNG KHÁNH TOÀN