* Những quy định ăn kiêng cho bệnh viêm khớp Rheumatoid Arthritis :
+ Ngũ cốc lứt :
• Gạo lứt hạt ngắn dùng nấu ăn hàng ngày, đây là thức ăn hàng đầu. Có thể nấu gạo với một nhúm muối nhỏ hoặc với 1cm,50 phổ tai cho một tách gạo. Có thể ăn gạo lứt chung với các loại ngũ cốc và đậu nhỏ hạt khác .
• Loại ngũ cốc thứ gồm: Kê, mì lứt, lúa mạch...
• Nui làm bằng lúa mì lứt: (udon), có thể dùng nhiều lần trong tuần với hình thức súp.
• Tránh ăn một thời gian chế phẩm nướng làm từ bột như bánh bích quy, khoai tây rán và đại loại như thế. Có thể dùng bánh mì có chất lượng cao, không ủ bằng men chua mỗi tuần vài lần.
• Bữa ăn điểm tâm có thể dùng cháo đặc bằng cách thêm nước vào cơm gạo lứt thừa hôm trước vàø nấu lại một lúc. Có thể ăn thường xuyên, Tránh ăn bánh cuốn và mì làm từ yến mạch trong thời gian đầu giai đoạn chữa bệnh. Yến mạch lứt nấu chín dùng tốt hơn.
+ Súp :
• Dùng hàng ngày một chén súp nêm tương đặc (miso), các loại tương đặc làm từ lúa mạch (mugi) hoặc làm từ đậu nành đều dùng tốt cả. Súp có thể gồm cả rong biển như rong wakarme hoặc phổ tai cùng nhiều loại rau củ đặc biệt: củ cải trắng daikon, các loại rau có lá xanh và rau củ có vị ngọt... Súp nêm nhạt thích hợp dùng hàng ngày.
• Dùng thêm một chén súp gồm nhiều loại như các ngũ cốc lứt hoặc đậu trong ngày để dồi dào thêm nguồn thực phẩm. Nhớ dùng thêm rong biển khi nấu súp.
+ Rau củ :
• Tất cả các dạng rau củ lá, củ tròn và rễ đều được dùng mỗi ngày, thay đổi các dạng nấu nướng. Tuy nhiên, rễ và lá củ cải trắng daikon đặc biệt hữu ích cho bệnh viêm khớp loại này nên dùng thường xuyên.
• Trong tháng đầu tiên trị bệnh, tốt nhất là không nên dùng dầu. Qua tháng thứ hai, mỗi tuần được dùng dầu một lần và hai lần mỗi tuần vào tháng thứ ba.
• Tốt nhất là không nên dùng rau xà lách sống nếu triệu chứng bệnh viêm khớp chưa thuyên giảm, tuy nhiên rau xà lách luộc và hấp có thể dùng ăn mỗi ngày hoặc cách ngày.
• Món làm từ ngưu bàng và cà rốt (Kimpira) và rau củ hầm hữu ích cho tình trạng này, dùng ăn vài lần mỗi tuần.
• Các loại rau củ như củ cải trắng (daikon), củ cải vàng (turnip), củ cà rốt đều rất hữu ích.
+ Đậu và các chế phẩm từ đậu :
• Đậu hạt nhỏ (xích tiểu đậu, đậu chim, đậu hòa lan và đậu nành đen) có thể dùng hàng ngày chừng nửa chén.
• Những loại đậu hạt lớn tốt nhất là không nên dùng trong tháng điều trị đầu tiên, qua tháng thứ hai có thể dùng hai ba lần/tháng.
• Tương đậu nành (tempeh) và tàu hũ ky có thể dùng ăn cách ngày trong nhiều món ăn khác nhau.
• Đậu hũ tươi dùng một hoặc hai lần mỗi tuần.
+Rong biển :
• Rong wakame và phổ tai (kombu) được dùng thường xuyên mỗi ngày dưới dạng súp, nấu với rau củ.
• Rong arame và tóc tiên (hiziki) hai ba lần mỗt tuần và lá rong nori nướng dùng mỗ ngày.
• Nói chung rong biển được dùng mỗi ngày với môtt lượng nhỏ.
+ Gia vị :
• Muối vừng, bột rong biển được dùng với sô lượng nhỏ hàng ngày. Muối vừng được làm theo tỷ lệ mười sáu vừng mộtt muối.
• Mơ muối dưỡng sinh (umebosi) hai hoặc ba lần hàng tuần.
• Lá tía tô và rong nori rang dùng làm gia vị mỗi tuần hai ba lần. Món xào đặc biệt tekka cũng vậy.
• Trong thời kỳ các khớp đau đớn, tốt nhất là tránh dùng giấm mơ muối và giấm táo.
+Dưa cải dầm muối :
• Dùng mỗi ngày một số lượng nhỏ dưa dầm muối lên men hoặc dưa dầm theo kiểu người Đức (Sauerkraut).
• Các lối dưa chua quá, cần hạn chế cho đến khi bệnh tình thuyên giảm.
• Nếu dưa dầm quá mặn, rửa sạch muối bằng nước lã trước khi ăn.
• Củ cải trắng (daikon) dùng ăn nhiều lần trong tuần rất tốt, chỉ cần vài miếng là đủ.
+ Cá và hải sản :
• Chỉ ăn cá thịt trắng, một hoặc hai lần mỗi tuần nếu đòi hỏi. Cá hấp, nướng, nấu súp.
• Cá và hải sản nên nấu với củ cải trắng hoặc cà rốt rất tốt.
+Trái cây :
• Trong trường hợp viêm sưng đỏ, nên hạn chế tôi đa trái cây và nước trái cây tươi.
• Nếu còn thèm, có thể dùng tráng miệng một ít trái cây phương Bắc nấu chín, nhiều lần trong tuần.
• Trái cây khác như nho và táo tây dùng thỉnh thoảng với số lượng nhỏ.
• Trong các trái cây phương Bắc, trái đào (peache) nấu chín đặc biệt hữu ích và có thể dùng thường. Đào tươi nên dùng ít vào mùa hè với một chút muối.
+ Hạt :
• Hạt mè, bí ngòi, bí đao rang sơ được dùng với số lượng nhỏ.
• Hạt hướng dương, tốt nhất là tránh ăn hoặc chỉ dùng một ít trong mùa hè.
+Các thức ăn phụ
• Dùng được một ít thức ăn phụ như bắp rang, bánh gạo, và ngũ cốc rang.
• Bánh Sushi, bánh gạo nhồi, nui và bánh mì làm bằng men chua dùng thỉnh thoảng như thức ăn phụ với số lượng ít.
+ Rau củ : Nhiều loại rau củ như cà rốt, bí, củ hành tây và bắp cải được dùng nấu ăn hàng ngày.
+ Các thức ngọt :
• Mạch nha gạo lứt thích hợp dùng làm chât ngọt cho bệnh này. Mỗi tuần dùng vài muỗng cà phê mạch nha này vào lúc ăn sáng với ngũ cốc, trà hoặc dùng khi ăn tráng miệng.
+ Nước uống :
• Lúc khát có thể uống trà già, nước suối và trà ngũ cốc. Các loại khác nên dùng thỉnh thoảng.
• Mỗi tuần một hai lần uống nước ép cà rôt, không dùng với nước đá lạnh. Tuy nhiên, khi các khớp đang đau đớn nên ngưng dùng một thời gian.
+Gia vị nêm :
• Tương đặc (mi so), tương cổ truyền (tamari soy sauce), muối biển và các thức dùng nêm thức ăn tốt nhất là dùng ít trong lúc nấu nướng.
• Các lối gia vị khác có tính kích thích, như là gừng cần giảm tối thiểu trong thời gian này.
+Các thức uống đặc biệt :
• Nước ép rau củ ngọt dùng ngày một tách.
• Mơ muối-sắn dây-tương (ume- Sho-kuzu); mỗi tuần 2 lần, trong nhiều tuần.
• Củ cải trắng (daikon) mài (1/3 tách) thêm cà rốt mài (1/2 tách) thêm nước cho vừa một tách, mỗi tuần dùng nhiều lần và chỉ dùng trong một tháng, các thành phần này đem đun nhỏ lửa trong hai hay ba phút, nêm vài giọt tương cho có vị
• Trà gạo lứt rang có thể dùng xen kẽ với trà già ba năm (bancha) làm thức uống căn bản cho bệnh này.
+Săn sóc tại nhà:
• Nếu các khớp bị viêm sưng, nóng, dùng lá rau xanh hoặc dùng đậu hũ và lá rau xanh (lượng bằng nhau) nghiền nhỏ đắp thẳng vào khớp đau.
+Các đề nghị thêm :
• Dùng khăn nhúng nước nóng, vắt ráo chà xát khắp người mỗi ngày, sáng và tối trước khi đi ngủ.
• Nhai thật nhỏ, cho đến khi thức ăn hóa thành nước mới nuốt.
• Đừng tắm quá lâu nhất là tắm bằng vòi sen.
• Các vật trang sức như nhẫn, đồng hồ và các loại làm bằng kim khí tốt nhất là đừng đeo, đặc biệt nhất là ở các vùng khớp đau.