Trà xanh Nhật Bản – Sencha - 煎茶
Sencha là trà xanh Nhật Bản được hấp ngay sau khi hái (trong trạng thái lá trà vẫn còn tươi) để ngăn chặn quá trình lên men vốn diễn tiến ngay sau khi hái trà xuống. Bằng cách làm như vậy trà xanh sẽ giữ được lâu. Tùy thời gian hấp mà độ tươi của trà thay đổi, thời gian hấp càng lâu thì độ tươi càng giảm và kèm theo đó là màu trà càng chuyển sang màu xanh lục.
Các cấp độ hấp trà (theo thứ tự thời gian từ ít đến nhiều) của sencha:
Asa-mushi (hấp sơ) – Chu-mushi (hấp vừa) – Fuka-mushi (hấp sâu) – Toku-mushi (hấp lâu) – Goku-mushi (hấp 2 lần)
Trà gạo rang Nhật Bản – Genmai-cha - 玄米茶
Genmai-cha là sencha trộn thêm gạo rang (là gạo chưa bóc vỏ lụa, tức là “genmai”). Đặc điểm của genmai-cha là do thành phần gạo rang lớn (thường khoảng một nửa) nên nhạt và ít caffein hơn sencha, dễ uống đối với người già và trẻ em. Ngoài ra, gạo rang đem lại hương thơm đặc trưng cho genmai-cha.
Genmai trong tiếng Nhật có nghĩa là “gạo lứt”, tức là hạt gạo chỉ xát vỏ trấu mà chưa xát vỏ cám.
Trà sao Nhật Bản – Hoji-cha - ほうじ茶
Hoji-cha là trà (như sencha, bancha, kukicha) được sao ở nhiệt độ cao (trên 200 độ C) cho đến khi có màu nâu và hương thơm ngào ngạt. Trà được đưa vào ở máy sao với nhiệt độ trên 200 độ C cho đến khi có hương thơm và sau đó được làm lạnh ngay. Chất caffein trong trà sẽ bị bốc hơi ở nhiệt độ cao nên cũng giống như genmai-cha, hoji-cha là trà nhạt, dễ uống và ngoài ra còn có hương thơm đặc trưng.
Hoji trong tiếng Nhật có nghĩa là “sao ở nhiệt độ cao” (焙じる).
Hoji-cha làm từ kuki-cha (trà cành)
Trà cành là trà được làm từ cành của các chồi non. Đặc điểm của kuki-cha là có mùi hương nhẹ đặc biệt và vị ngọt. “Kuki” trong tiếng Nhật nghĩa là “thân” hay “cành”.
Trà búp – Mecha - 芽茶
Mecha là trà búp non chọn trong quá trình chế biến các loại trà cao cấp nên có vị ngọt và vị đậm.
Trà cuốn Nhật Bản – Tama-ryokucha - 玉緑茶
Là loại trà mà không có công đoạn chuốt thẳng mà chỉ cho vào lò sấy quay và sấy khô bằng gió nhiệt nên không thẳng mà cuốn tròn.
Trà cuốn thường ít vị chát và khá dịu.
Trà bột Matcha
Trà bột được dùng trong trà đạo Nhật Bản. Ở dạng chưa nghiền bột được gọi là "Tencha". Matcha có màu xanh sáng và độ ngọt cũng như độ chát tùy theo độ sáng của bột. Matcha càng sáng màu thì càng ngọt.
Khi cây chè lên khoảng 2-3 lá non thì người ta dùng vải mỏng hoặc mành che ánh nắng mặt trời không cho chiếu vào các chồi non. Trong quá trình làm tencha, người ta sấy khô sau khi đã hấp chồi non. Trong quá trình sấy khô, gân lá và thân mảnh được loại bỏ trước khi đem nghiền thành bột. Matcha có thể hòa tan trong nước nên nó cung cấp toàn bộ chất dinh dưỡng khi thưởng trà. Bột matcha cũng là một nguyên liệu trong rất nhiều các món ăn truyền thống ở Nhật Bản.
Trà Bancha
Sau thời gian thu hoạch để làm trà Sencha từ cuối tháng 2 đến hết tháng năm thì chồi non và lá trà bắt đầu phát triển. Đây chính là thời gian thu hoạch để làm trà Bancha. Với trà được làm từ lá trà trong tháng 6 thì gọi là nibancha, trong tháng 8 gọi là sanbancha và trong tháng 10 gọi là yonbancha. Trà bancha được làm từ thân trên ngọn cây và những lá trà già hơn và bị loại ra trong quá trình sản xuất sencha.
So với sencha, trà ban cha chát hơn và không thơm bằng nên nó được sử dụng để làm thức uống nhẹ sau bữa ăn. Trà bancha chứa nhiều flor hơn các loại trà khác nên nó có tác dụng chống sâu răng và hôi miệng. Trà bancha được làm từ các lá trà non hơn, có mùi thơm dễ chịu và ít chát hơn được gọi là "senryu"
Dựa trên những loại trà này, các nghệ nhân sẽ có những cách pha chế khác nhau để tạo nên những hương vị khác nhau cho trà đạo Nhật Bản.