Những trẻ sinh đủ tháng có cân nặng dưới 2.500g là những trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai (SDDBT). Nguyên nhân thường do thời gian mang thai, người mẹ không được ăn uống đầy đủ, làm việc và nghỉ ngơi không hợp lý hoặc bị đau ốm bệnh tật. Thường các bà mẹ có mức tăng cân ở cuối thai kì thấp dưới 6 kg, chắc chắn bị đã bị SDDBT.
SDDBT là thể suy dinh dưỡng sớm nhất. Ở những trẻ này, các cơ quan như da, cơ, xương, não, gan, thận… đều bị ảnh hưởng dễ nhận thấy nhất là trẻ sinh ra bị nhẹ cân. Hậu quả của tình trạng này tùy thuộc vào giai đoạn bào thai bị suy dinh dưỡng (SDD), chế độ nuôi dưỡng trẻ sau khi chào đời. SDD xảy ra ở 3 tháng cuối của thai kỳ làm cho bộ não chậm phát triển sau này trẻ sẽ kém thông minh. Trẻ bị SDDBT khi chào đời dễ bị hạ thân nhiệt , hạ đường máu gây rối loạn nhịp thở, hạ canxi máu gây co giật. Nếu được nuôi dưỡng đúng, trẻ sẽ phát triển bình thường và đạt mức cân nặng như những trẻ khác sau 2-3 tháng, nhưng chiều cao thì rất khó đạt được mức bình thường. Vì vậy, trẻ bị SDDBT có nguy cơ bị thấp còi sau này, và dễ bị thừa cân béo phì do thấp chiều cao. Ngược lại, nuôi dưỡng không tốt, trẻ tiếp tục bị SDD, trẻ ốm đau, quặt quẹo, còi cọc, chậm phát triển trí tuệ, kém thông minh. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), có đến 1/3 số trẻ có cân nặng khi sinh dưới 2.500g chết trong những năm đầu đời.
TẠI SAO TRẺ BỊ SUY DINH DƯỠNG BÀO THAI?
Có 4 yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc phát triển của bào thai, tác động đến sức khỏe sau này của đứa trẻ, mà chỉ cần có lời khuyên cho người mẹ cũng có thể đem lại kết quả đáng kích lệ. Đó là:
Tuổi tác của người mẹ: cơ thể của con người được phát triển và lớn lên trong một quá trình rất dài cho đến 25 tuổi mới thực sự ngừng lớn và phát triển hoàn toàn, với người phụ nữ cũng vậy. Tuy nhiên, với cơ thể của phụ nữ thì tuổi 30 trở đi đã bắt đầu có hiện tượng thoái hóa, già cỗi dần.
Chính vì vậy, thời gian thực hiện chức năng sinh sản, sinh con tốt nhất của người phụ nữ là từ 25 tuổi đến 30 tuổi. Nếu đẻ sớm hơn, đẻ trước 25 tuổi sẽ làm cho cơ thể người mẹ ngừng lớn, ngừng phát triển vì phải chia sẻ phần mình cho thai nhi. Luận điểm trên có thế lý giải hiện tượng, ở các nước nghèo, chậm phát triển đặc biệt là các nước phương Đông, Châu Á, do tục lệ gả chồng sớm cho con gái, đã làm phụ nữ thấp bé, còi cọc, đứa trẻ đẻ ra cũng bị còi cọc cho dù người chồng có cao to. Điều này có nghĩa là tầm vóc, chiều cao của người mẹ sẽ quyết định tầm vóc, chiều cao của các con. Tầm vóc cũng phụ thuộc tuổi người mẹ lúc mang thai. Tuổi của người mẹ không những ảnh hưởng đến chiều cao của trẻ mà còn có thể vì tuổi quá lớn vẫn sinh con sẽ dễ đẻ ra những đứa trẻ không bình thường, bị dị tật bẩm sinh, điển hình là hội chứng down, tim bẩm sinh, hở hàm ếch, sứt môi. Vì vậy, sau 35 tuổi sinh đẻ sẽ không an toàn.
Sức khỏe của người mẹ: sức khỏe của mẹ quyết định sức khỏe của con. Nếu người mẹ khỏe mạnh sẽ đẻ ra những đứa con khỏe mạnh. Trong thời gian có thai, nếu người mẹ bị cúm, sốt phát ban, mắc các bệnh nhiểm khuẩn cấp, sẽ dễ đẻ ra những đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh. Khi mẹ đang có bệnh mãn tính như sốt rét, viêm gan, thấp tim, phù thận cần phải chữa khỏi bệnh rồi mới mang thai. Có những bệnh của người mẹ có khả năng lây truyền cho con như giang mai, AIDS, vì vậy cần phải khám sức khỏe, nếu thật sự an toàn sức khỏe thì sinh con.
Có một số bệnh di truyền, mẹ mang các gen bệnh trong người nhưng vì thể ẩn nên không biểu hiện thành bệnh (như một số bệnh về nội tiết và di truyền, chuyển hóa). Trong trường hợp này bà mẹ cần đến gặp các thầy thuốc như khoa về di truyền học, nội tiết học để có lời khuyên và những biện pháp chẩn đoán sớm, cái thai nào là lành mạnh nên sinh, cái thai nào mang mầm bệnh cần chấm dứt sớm để không đẻ ra những đứa con mang bệnh.
Dinh dưỡng của người mẹ: thời kỳ trẻ còn trong bào thai, dinh dưỡng của trẻ phụ thuộc vào dinh dưỡng của người mẹ. Nguồn dinh dưỡng của mẹ sẽ theo máu qua nhau thai đến cung cấp cho con. Vì vậy, khi có thai, người mẹ vừa ăn cho mình, vừa ăn cho con. Thành phần dinh dưỡng lúc này không phải chỉ cần số lượng , ăn nhiều và đủ mà người mẹ phải ăn có chất mới bảo đảm sự phát triển của bào thai. Ví dụ, mẹ chỉ ăn đủ no, những bữa ăn toàn chất bột, cơm ngô khoai sắn. Đứa con cũng sẽ to, nhưng chiều cao sẽ ngắn, lớn lên sẽ thấp lùn. Vì để cấu tạo nên bộ khung xương, cơ thể của trẻ cần có chất đạm, đó là thịt, trứng, đậu, tôm, cá. Những chất này sẽ xây dựng các tổ chức cơ quan cho trẻ như hệ thống não thần kinh trung ương, tim, gan, phổi, bộ máy tiêu hóa, hô hấp, tuần hoàn và tiết niệu…Mẹ cũng cần phải ăn đủ rau xanh và hoa quả, vì trong đó sẽ có nhiều chất khoáng như sắt, đồng, kẽm, canxi, photpho cũng như các loại vitamin. Nếu thiếu những thứ này sẽ bị thiếu máu, còi xương, mù lòa do thiếu vitamin A…Ở những nước phát triển, không chờ khi có thai mới chăm sóc bà mẹ mà việc chăm sóc nay được làm sớm hơn nhiều, ngay từ khi còn là một bé gái (đảm bảo ăn uống đủ chất để cơ thể phát triển cơ thể cân đối, tầm vóc cao khỏe), có thể mới có được một thế hệ tương lai khỏe mạnh hơn.
Điều kiện lao động của mẹ khi mang thai: Bình thường chúng ta lao động đã phải tiêu hao năng lượng, lao động càng nặng thì tiêu hao năng lượng càng nhiều. Khi có thai, ngoài năng lượng tiêu hao do lao động, người mẹ còn phải dành một phần đáng kể năng lượng cho phát triển thai nhi và dự trữ để sinh sữa cho con bú sau này.
Cuối thai kỳ (tức sau 9 tháng 10 ngày), bà mẹ phải tăng được 12 kg trở lên, 3 tháng đầu chỉ tăng 1 kg, 3 tháng thứ 2 tăng 5kg, 3 tháng cuối mỗi tháng tăng 2 kg. Số cân nặng này chia cho bào thai, rau thai, nước ối và máu hết 7,5kg, 5kg còn lại được chuyển vào mô mỡ dự trữ để tiết sữa nuôi con.
Nếu mẹ chỉ tăng được 6-7 kg trong thời kỳ mang thai thì sau khi sinh con, mẹ không còn gì để sinh sữa. Điều này giải thích vì sao ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bà mẹ bị ít sữa, mất sữa sớm, không có sữa để nuôi con.
Tóm lại, 4 yếu tố trên đây rất có ý nghĩa quyết định đến phát triển bào thai, sức khỏe đứa trẻ lúc ra đời, sức khỏe thể chất và trí tuệ lâu dài sau này.
CHĂM SÓC TRẺ BỊ SUY DINH DƯỠNG BÀO THAI THẾ NÀO?
Với những trẻ bị SDDBT việc nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ có tầm quan trọng đặc biệt, lưu ý như sau:
- Cần ủ ấm cho trẻ thường xuyên, tốt nhất là nằm cạnh mẹ ngay sau khi sinh
- Theo dõi sát sao để phát hiện sớm và xử lý kịp thời khi có dấu hiệu trẻ bị hạ thân nhiệt hay hạ đường máu, hạ canxi máu
- Tắm rửa bằng nước sạch, thay băng rốn hàng ngày
- Cho trẻ bú mẹ sớm, trong nửa giờ đầu sau khi lọt lòng mẹ: cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đơi, cho trẻ bú nhiều lần (kể cả ban đêm) hơn những trẻ có cân nặng bình thường. Nếu trẻ bú kém, cần vắt sữa mẹ ra cốc rồi cho ăn bằng thìa. Trường hợp mẹ thiếu hoặc mất sữa, chọn loại sữa cao năng lượng dành cho trẻ nhẹ cân.
- Chỉ cho ăn bổ sung khi trẻ được 6 tháng tuổi , phải bảo đảm khẩu phần của trẻ có đủ dinh dưỡng cả về lượng và chất. Trẻ ăn ít nên cho ăn nhiều bữa trong ngày, chế biến thức ăn có năng lượng cao bằng cách dùng các men enzym trong các hạt nẩy mầm như giá đỗ, mầm lúa,… tăng dầu mỡ trong các bữa ăn dặm của trẻ. Có thể bổ sung thêm men tiêu hóa enzym, kẽm, vitamin nhóm B, lysin…theo chỉ định của bác sĩ khi trẻ biếng ăn. Nên chọn các thực phẩm giàu canxi, sắt, kẽm, vitamin A, D… để giúp trẻ phát triển chiều cao, phòng ngừa SDD thấp còi sau này.
- Cho trẻ uống vitamin A, vitamin D và tiêm vắc-xin đầy đủ theo quy định của y tế
- Ngoài chế độ ăn nên bổ sung các vi chất dinh dưỡng như: kẽm, canxi, vitamin D, A… dưới dạng thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ để giúp trẻ phát triển chiều cao, phòng trừ thừa cân béo phì do thấp còi.
Vì thế hệ con trẻ sau này hãy chăm sóc tốt chính bản thân mình và con cái bằng chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt và lao động lành mạnh hợp lý!