Người trước nay ăn thịt mà đổi qua ăn ngủ cốc và rau sẽ gặp khó khăn trong lúc đầu. Do hệ thống tiêu hoá đã mất đi cơ năng chuyển hoá cốc loại và rau củ thành chất thịt ( protein ). Vì vậy cần một thời gian mới phục hồi bản năng tự nhiên đó, do vậy sẽ sụt cân chút ít. Tuy nhiên nếu sụt cân nhanh quá và quá mức trung bình thì xảy ra nhiều rối loạn hoặc đi đến suy dinh dưỡng trầm trọng.
Nếu số cân tụt quá nhanh do áp dụng không đúng, nhất là đối với những người suy yếu thì cần ăn thêm nhiều loại thức ăn khác nhau:
Cho người ăn chay :
Cho người ăn mặn :
Ghi chú : Không nên áp dụng quá cực đoan thí dụ như dùng thuần cốc loại lứt trong một thời gian quá dài để cho cơ thể quá suy kiệt, và trong trường hợp này cần phải có sự giúp đỡ của y học hiện đại.
Muối mè là thức ăn không thể thiếu trong thực dưỡng , nhất là ăn thuần chỉ ngủ cốc lứt và muối mè, mè nhiều bổ dưỡng và tạo quân bình cho cơ thể . Trong mè có khoảng 55 % dầu, 22 % chất đạm ( protein ), ngoài ra còn chứa chất đồng, canxi, pentozan, lexitin, phytin và cholin.
Mè ngoài trừ việc coi là một vị thuốc bổ cho ngủ tạng, nuôi huyết, lợi sữa ( sản phụ ), chống táo bón, bền gân, sáng mắt .
Kết hợp với muối biển với tỷ lệ từ 3 mè + 1 muôí cho đến 20 mè ( hay hơn ) + 1 muối tuỳ theo bệnh tình, tuổi tác, hoạt động của từng người .
Tuy nhiên do tính năng, tính dược của mè và muối ( dù khi nhai nhỏ chất dầu trong mè bọc lấy phân tử muối làm ngăn tác dụng không mong muốn của mè và muối ), khi sử dụng cần lưu ý mà sử dụng cho phù hợp như sau :
- Trẻ con và người lớn tuổi : nên dùng ít muối , tỷ lệ khoảng từ 10 đến 15 mè +1 muối biển .
- Người trẻ và lao động nặng , vận động nhiều : nên dùng phần hơn muối, tỷ lệ trung bình từ 6 mè cho đến 10 mè 1 muối .
- Đối với các bệnh lệch quân bình Âm thì tăng hơn phần muối, đối với các bệnh Dương thì cần giảm phần lượng muối .
Các bệnh nên hạn chế ( ăn rất ít hoặc không ăn ) muối mè ( mỗi chén cơm dùng 1/3 muỗng muối mè hoặc không ăn ) như :
* Bệnh dị ứng,ngứa lở ngoài da, bệnh có khối u, bệnh ho, viêm phổi , bệnh ung thư phổi ( kể cả Âm và Dương ), bệnh ung thư vú ( kể cả Âm/Dương ), viêm tuỷ xương,viêm xoang mũi, ung thư tiểu trường, ung thư dạ dày, bướu dạ con (tử cung)
* Bệnh suy thận, teo thận, huyết áp cao, đột quỵ, bệnh viêm khớp Dương, viêm gan Dương, cứng động mạch, phần lớn các bệnh Dương, bệnh đục nhân mắt ( cataracts ), bệnh cườm mắt (trachoma ),bệnh mất ngủ.
Các bệnh chỉ nên ăn vừa muối mè ( mỗi chén cơm từ 1 đến 2 muỗng muối mè theo tỷ lệ trên ) : Ung thư đại trường, xuất huyết dạ con,
Đối với các bệnh khác tuỳ theo bệnh và tuỳ theo thể trạng mà dùng cho phù hợp
Dựa trên nguyên tắc làm vừa ngon miếng ăn chứ không phải làm tăng vị mặn và tránh dùng thêm gia vị chấm ( tương ) trên bàn ăn. Dùng quá nhiều muối sẽ làm cứng động mạch, các khớp hoá cứng và hại thận, hại tim .
Khi dùng trà xích tiểu đậu rang hay trà gạo lứt rang nên ngâm trước đậu rang và gạo rang ngập trong nước, sau khoảng từ 5 đến 7 phút thì đổ bỏ nước đó đi, rồi mới đổ nước khác vào ( ngâm thêm một thời gian chừng 1 hay 2 tiếng ) nấu tiếp, nếu cạn thì thêm nước, sau cùng còn lại phân nửa nước (so với lúc đổ ban đầu ) là được .
Lý do đổ bỏ nước đầu tiên là đậu và gạo sau khi rang thường bị phục nhiệt và tạo hư hoả làm háo người có khi gây viêm cổ họng, co cứng động mạch và các khớp kể cả đi phân ra máu (nếu dùng lâu ngày).Các cụ ngày xưa sau khi sao vàng dược thảo đều “hạ thổ” trên nền đất sạch cho thật nguội rồi mới nấu dùng là lý do đó .
Tất nhiên tất cả đều có ngoại lệ, một số người nhất là những người ăn nhiều trái cây, kem, nước đá có tạng quá Âm thì có thể không bị các tác dụng không mong muốn trên dù không “hạ thổ” hay không “thuỷ phi” như nói trên .
Theo bepthucduong.com